Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ. Bà nài xin Ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà, nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương. “Hãy để con cái ăn trước, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27). Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà, còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Lập trường của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay rất khác thường. Ngài nói một nguyên tắc có vẻ như đi ngược với sách Lêvi: “Không có gì từ ngoài vào trong con người, lại có thể làm nó ra ô uế” (c.15), “Mọi thứ từ bên ngoài vào trong con người không thể làm nó ra ô uế” (c. 18). Đối với Đức Giêsu, chính cái xấu xa từ bên trong, từ trái tim con người,
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13). Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm, truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Cái chạm của bệnh nhân là cái chạm của lòng tin vào Đức Giêsu. Nó giống với cái chạm của người phụ nữ bị băng huyết (Mc 5, 28). Không phải chỉ là chạm bằng tay, mà bằng cả con người. Nơi đáy lòng con người vẫn có khát khao được đụng chạm đến Thiên Chúa, cả nơi những người không tin có Ngài hay bướng bỉnh như Tôma.
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Ðấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: “Ðừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.”
Lời mời của Thầy Giêsu vẫn đụng đến chúng ta hôm nay, những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng, những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc. Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm, đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22), Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra. Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu. Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15), coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Những thứ bị cấm mang khi đi đường là những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết: lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong. Như thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu, và phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ. Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ. Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân? Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa. Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25), người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến. Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình. Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết. Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy trỗi dậy.” Trỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa. Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15). Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ. Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18). Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.
Tầm nhìn và sứ mạng của Ngài là toàn thế giới, trong đó có cả Dân Ngoại khắp tứ phương. Ngài biết Dân Ngoại có chỗ trong trái tim Thiên Chúa.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình, điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão, có khi lại gặp bão tố nhiều hơn. Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.