Đối với người Việt Nam chúng ta, việc tôn kính ông bà tổ tiên rất được đề cao. Đề cao đến độ mà việc tôn kính đã trở thành đạo lý, lẽ sống: đạo ông bà, đạo hiếu, đạo thờ cúng tổ tiên. Để đánh giá một người nào, người Việt chúng ta thường dựa vào cách đối xử của người đó với ông bà, cha mẹ. Thậm chí người ta còn coi việc báo hiếu trọng hơn việc đi tu.
Từ ngữ Công giáo tại Việt Nam là một bộ phận của tiếng Việt, chảy chung dòng chảy lịch sử của tiếng Việt, nên mang những đặc điểm chung của tiếng nói dân tộc Việt mà đa phần đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, với tư cách là các biệt ngữ xã hội, lớp từ ngữ này cũng có những đặc điểm riêng cần tìm hiểu để góp thêm một nét vẽ cho bức tranh ngôn ngữ Việt Nam. Bài viết nghiên cứu các đặc điểm vay mượn của lớp từ ngữ Công giáo tại Việt Nam (qua khảo sát cứ liệu từ các bản kinh nguyện của một số giáo phận Công giáo tại miền Bắc Việt Nam) là một nỗ lực trong nguyện ước như thế.
Những bài viết của quý tác giả được sưu tập trong quyển sách này mặc dù đã ra đời trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả đều chất chứa một tâm trạng chung, là làm sao để ghi lại những suy nghĩ và những cảm nghiệm về một cái gì đó rất quan trọng đang hình thành, bằng những nét tuy còn chấm phá nhưng rất thật và rất đáng quan tâm, đó là một nền văn học Công giáo đang từng bước hình thành và phát triển, mà hơn ai hết quý tác giả là những người thợ thu hình vừa “có tâm” vừa “có tầm”, bởi lẽ không phải ai cũng có thể làm được điều đó, hoặc có nhiều người muốn làm nhưng không làm được.
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về chỗ đứng của nghệ thuật thị giác, đặc biệt là hội hoạ trong lòng Giáo Hội Công giáo, một Giáo Hội tôn thờ Thiên Chúa - Nghệ sĩ tối cao và tuyệt đối lỗi lạc. Phần đầu bài viết xin được trình bày nhận định của phong trào Lausanne về vị trí của Nghệ thuật Thị giác qua các thời kỳ lịch sử.
Theo “Inê Tử đạo Vãn”, gia đình cha Laurent là cư dân thuộc xứ Lâm Tuyền, phủ Diên Ninh. Ông Carôlô Lam và bà Isave, cha mẹ cha Laurent, sinh được 12 người con, bảy trai, năm gái, cha Laurent là con trai đầu lòng. Thư cha Courtaulin gởi cho Đức cha Lambert năm 1676 cho biết ông Carôlô là người đã đóng góp của cải để làm nhà cho các trinh nữ (Nhà phước Chợ Mới).[1]
Pina có công đầu trong việc sáng chế chữ quốc ngữ và Alexandre de Rhodes là người hoàn thiện chữ quốc ngữ và xuất bản từ điển và sách giáo lý bằng quốc ngữ...
Trong bài viết này, sau khi giới thiệu sơ lược về con người, công việc và tầm ảnh hưởng của cha Girolamo Maiorica, chúng tôi sẽ đi sâu vào tác phẩm Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông[4](TCTGKM) để tìm hiểu các phương cách thích ứng và hội nhập văn hoá của ngài trong khi trình bày giáo lý đức tin chân truyền cho người Việt.
(Nhân kỷ niệm 90 năm qua đời (1932-2022) của thừa sai Albert Schlicklin (Cố Chính Linh), người đầu tiên dịch trọn bộ Thánh Kinh sang Quốc ngữ)
Mọi ngôn ngữ đều có những câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng những nhận xét sắc bén về kinh nghiệm sống. Tên của những câu nói ngắn gọn đó là Tục Ngữ trong tiếng Việt và Hán, Proverb trong tiếng Anh, Proverbe trong tiếng Pháp, Dicho trong tiếng Tây ban nha, Proverbio trong tiếng Ý, và Sprichwort trong tiếng Đức.
Bài tham luận được chọn báo cáo trong Hội thảo thường niên Nghiên cứu Hán Nôm năm 2021 của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tổ chức ngày 01.10.2021,
Hướng nghiên cứu này có thể được mở rộng ra nhiều lãnh vực khác của ngôn ngữ Việt Nam qua các tác phẩm văn học viết như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca. Tác giả mong rằng có dịp tiếp tục đề tài để trình bày về sự tiếp ứng văn hóa Việt và Công giáo biểu thị qua ngôn ngữ.