Giáo Phận Hải Phòng

http://www.gphaiphong.org


Việc xưng tội có trong Kinh Thánh không?

Một vài đoạn văn cuối cùng mà chúng ta sẽ xem xét là Mátthêu 16, 19 và 18, 18. Cụ thể, chúng ta sẽ khảo sát những lời của Đức Kitô nói với Phêrô và các tông đồ: “dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Như Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo số 553 đã nói, ở đây Đức Kitô không chỉ ban cho các tông đồ quyền “công bố các phán xét giáo lý, và đưa ra các quyết định kỷ luật trong Hội Thánh”, mà còn là “năng quyền tha tội” cho các tông đồ.
10 3 Bản Hướng Dẫn Xét Mình Và Cách Thức Xưng Tội
VIỆC XƯNG TỘI CÓ TRONG KINH THÁNH KHÔNG?

TIM STAPLES
 
(Bản dịch Việt ngữ* được thực hiện bởi Giuse Bùi Xuân Trường, nguồn:
https://www.catholic.com/magazine/online-edition/is-confession-in-scripture)

 
ĐỨC CHÚA tuyên bố trong Isaia 43, 25:
 
"Nhưng chính Ta đây, vì danh dự của Ta, Ta sẽ xóa bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm của ngươi nữa."
 
Thánh vịnh 103, 2-3 cho biết thêm:
 
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi…
 
Nhiều người sẽ dùng những đoạn này để chống lại ý tưởng xưng tội với linh mục. Thiên Chúa tha tội nên họ sẽ đòi loại trừ khả năng cần có một linh mục để giải tội. Hơn nữa, thư Do thái 3, 17, 22-27 cho chúng ta biết Chúa Giêsu là “Thượng Tế...cho chúng ta tuyên xưng đức tin” và rằng không có “nhiều tư tế”, mà chỉ có một trong Tân Ước — Đức Giêsu Kitô. Hơn nữa, nếu Chúa Giêsu là “Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1 Tm 2, 5), thì làm sao người Công giáo có thể tuyên bố một cách hợp lý rằng các linh mục đóng vai trò trung gian trong Bí tích Giải tội?
 
BẮT ĐẦU VỚI GIAO ƯỚC CŨ

Giáo hội Công giáo thừa nhận điều mà Kinh Thánh tuyên bố một cách dứt khoát: chính Thiên Chúa là Đấng tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng đó không phải là hồi kết của câu chuyện. Sách Lêvi 19, 20-22 cũng nói rõ ràng như sau:
 
Khi một người đàn ông giao hợp với một người đàn bà…chúng sẽ không bị xử tử…Người đàn ông sẽ đem dâng ĐỨC CHÚA lễ vật đền tội của mình…Tư tế sẽ lấy con cừu đực dùng làm lễ đền tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, trước nhan ĐỨC CHÚA, vì tội nó đã phạm, và nó sẽ được tha tội đã phạm.
 
Rõ ràng, một linh mục được sử dụng như khí cụ tha thứ của Thiên Chúa không bằng cách nào đó làm mất đi sự thật rằng chính Thiên Chúa đã thực hiện việc xá tội. Thiên Chúa là nguyên nhân đầu tiên của sự tha thứ; linh mục là nguyên nhân thứ yếu, hoặc công cụ. Vì vậy, việc Thiên Chúa là Đấng tha tội trong Isaia 43, 25Thánh vịnh 103, 3 không loại trừ khả năng có một chức tư tế thừa tác được Thiên Chúa thiết lập để thông ban sự tha thứ của Ngài.
 
RA NGOÀI CỰU ƯỚC

Nhiều người Tin lành sẽ thừa nhận quan điểm rằng các tư tế đóng vai trò trung gian tha thứ trong Cựu Ước. “Tuy nhiên,” họ sẽ khẳng định, ”Dân Chúa có các tư tế trong Cựu Ước. Chúa Giêsu là tư tế duy nhất của chúng ta trong Tân Ước.” Câu hỏi đặt ra là: có thể nào “Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 2, 13) đã làm điều gì đó tương tự như điều mà Ngài đã làm, với tư cách là Thiên Chúa, trong Cựu Ước không? Có thể nào Ngài đã thiết lập một chức tư tế để làm trung gian tha thứ của Ngài trong Tân Ước không?
 
VÀO TRONG GIAO ƯỚC MỚI

Giống như việc Đức Chúa trao quyền cho các tư tế của Ngài để trở thành công cụ tha tội trong Cựu Ước, thì Thiên Chúa/con người là Đức Giêsu Kitô đã giao quyền cho các thừa tác viên trong Tân Ước của Ngài để hoạt động như những trung gian hòa giải. Chúa Giêsu làm điều này một cách rõ ràng trong Gioan 20, 21-23:
 
Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
 
Từ cõi chết sống lại, ở đây Chúa chúng ta giao phó cho các tông đồ để thực hiện công việc của Ngài ngay trước khi lên trời. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Chúa Cha sai Chúa Giêsu đến để làm gì? Tất cả các Tín hữu Kitô giáo đều đồng ý rằng Ngài đã chọn Đức Kitô làm trung gian thực sự duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Như vậy, Đức Kitô đã công bố Phúc Âm một cách không thể sai lầm (x. Lc 4, 16-21), trị vì ở nơi tối cao với tư cách là Vua các vua và Chúa các chúa (x. Kh 19, 16); và đặc biệt, Ngài đã cứu chuộc thế giới qua việc tha tội (x. 1 Pr 2, 21-25; Mc 2, 5-10).
 
Tân Ước khẳng định rất rõ ràng rằng Đức Kitô đã sai các tông đồ và những người kế vị họ thực hiện cùng một sứ mệnh này. Công bố phúc âm với thẩm quyền của Đức Kitô (Mt 28, 18-20), cai quản Hội thánh thay Ngài (x. Lc 22, 29-30), và thánh hóa Hội thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể (x. Ga 6, 54; 1 Cr 11, 24-29) và cho mục đích của chúng ta ở đây – Xưng tội.
 
Gioan 20, 22-23 đề cập không gì khác ngoài việc Chúa Giêsu nhấn mạnh một khía cạnh thiết yếu của chức vụ tư tế nơi các tông đồ: Tha tội cho loài người trong tư cách của Đức Kitô— “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Hơn nữa, việc nghe lời xưng tội của người khác được ngụ ý mạnh mẽ ở đây. Cách duy nhất các tông đồ có thể tha thứ hoặc cầm giữ tội lỗi là trước tiên nghe những tội lỗi đó được thú nhận, và sau đó đưa ra phán quyết xem hối nhân có được tha thứ hay không.
 
THA THỨ HAY CÔNG BỐ?

Nhiều người Tin lành và các giáo phái Kitô khác cho rằng phải coi đoạn Gioan 20, 23 là Đức Kitô chỉ đơn giản lặp lại “nhiệm vụ cao cả” của Mátthêu 28, 19Luca 24, 47 bằng những từ khác nhau có ý nghĩa giống nhau:
 
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
…phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối…
 
Bình luận về Gioan 20, 23 trong cuốn sách của mình, Chủ nghĩa Rôma — Sự tấn công không ngừng nghỉ của Công giáo La Mã vào Phúc âm của Chúa Giêsu Kitô! (White Horse Publications, Huntsville Alabama, 1995), tr. 100, nhà hộ giáo Tin lành Robert Zins viết:
 
Rõ ràng là sứ mệnh truyền giáo được đan kết chặt chẽ với sứ mệnh rao truyền sự tha thứ tội lỗi nhờ đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô.
 
Zin khẳng định rằng Gioan 20, 23 không nói rằng các tông đồ sẽ tha tội; đúng hơn là họ sẽ chỉ công bố sự tha thứ tội lỗi. Vấn đề duy nhất với lý thuyết này là nó vấp thẳng vào bản văn của Gioan chương 20. "Anh em tha tội cho ai…anh em cầm giữ ai." Bản văn không thể nói rõ ràng hơn: đây không chỉ là một lời công bố đơn thuần về sự tha thứ tội lỗi — “sự ủy thác” này của Chúa truyền cho họ năng quyền để thực sự xá tội.
 
XƯNG TỘI THƯỜNG XUYÊN

Câu hỏi tiếp theo đối với nhiều người khi nhìn thấy những đoạn trích của Thánh Gioan là, "Tại sao chúng ta không thấy thêm bất kỳ điều gì về việc Xưng tội với linh mục trong phần còn lại của Tân Ước?" Thực tế là: chúng ta không cần. Thiên Chúa phải nói với chúng ta điều gì đó bao nhiêu lần trước khi chúng ta tin điều ấy? Ngài chỉ ban một lần cho chúng ta công thức thích hợp để làm phép rửa (Mt 28, 19), nhưng tất cả các Tín hữu Kitô giáo đều chấp nhận lời dạy này.
 
Nhưng thực ra, có nhiều đoạn văn đề cập đến việc Xưng tội và tha tội thông qua môn đệ của Giao Ước Mới. Tôi sẽ chỉ trích dẫn một vài trong số đó:
 
2 Côrintô 2, 10:
 
Anh em tha thứ cho ai, thì tôi cũng tha thứ cho người ấy. Và nếu tôi đã tha thứ -trong trường hợp phải tha thứ-, thì cũng là vì anh em, trước mặt Đức Kitô (DRV).
 
Nhiều người có thể phản hồi đoạn văn này bằng cách trích dẫn các bản dịch Kinh Thánh hiện đại, chẳng hạn bản RSVCE:
 
Những gì tôi đã tha thứ, nếu tôi đã tha thứ bất cứ điều gì, là vì lợi ích của anh em trong sự hiện diện của Đức Kitô (nhấn mạnh thêm).
 
Thánh Phaolô, người ta lập luận, đơn giản là tha thứ cho người khác theo cách mà bất kỳ giáo dân nào cũng có thể tha thứ cho ai đó vì những điều sai trái đã phạm phải đối với mình. Từ ngữ Hy lạp - prosopon - có thể được dịch theo cả hai cách. Và tôi lưu ý ở đây rằng cả những người Công giáo thiện chí cũng sẽ tranh luận về điểm này. Đây là một phản đối dễ hiểu và hợp lệ. Tuy nhiên, tôi không đồng tình với nó vì bốn lý do:
 
  • Không chỉ Douay-Rheims, mà bản King James của Kinh Thánh — mà không ai có thể cáo tội là bản dịch Công giáo — đều dịch prosopon là “con người.”
  • Các Kitô hữu đầu tiên, những người nói và viết bằng tiếng Hy lạp Koine, tại Công đồng Êphêsô (431 SCN) và Chalcedon (451 SCN), đã sử dụng prosopon để chỉ “con người” của Chúa Giêsu Kitô.
  • Ngay cả khi người ta dịch bản văn là Thánh Phaolô ân xá “trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô,” ngữ cảnh dường như vẫn chỉ ra rằng ông đã tha thứ cho tội lỗi cho người khác. Và hãy lưu ý: Thánh Phaolô đặc biệt nói rằng ông đang tha thứ cho những người không phạm tội chống lại ông (x. 2 Cr 2, 5). Bất kỳ tín hữu Kitô giáo nào cũng có thể và phải làm điều này. Thánh nhân nói rằng ông đã thực hiện việc tha thứ “vì [những người Côrintô]” và “trong con người (hoặc sự hiện diện) của Đức Kitô.” Ngữ cảnh dường như cho thấy ông đang tha thứ cho những tội lỗi không liên quan đến cá nhân ông.
  • Chỉ ba chương sau, Thánh Phaolô cho chúng ta biết lý do tại sao ông có thể tha thứ cho tội lỗi của người khác: “Mọi sự này đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải.” (2 Cr 5, 18). Một số người sẽ cho rằng “chức vụ hòa giải” ở câu 18 giống với “sứ điệp hòa giải” trong câu 19. Nói cách khác, Thánh Phaolô chỉ đơn giản đề cập đến năng quyền công bố ở đây. Tôi không đồng ý. Tôi cho rằng Thánh Phaolô sử dụng các thuật ngữ riêng biệt một cách chính xác bởi vì ông không chỉ đề cập đến “sứ điệp hòa giải”, mà còn đề cập đến cùng một sứ vụ hòa giải của Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô không chỉ rao giảng một sứ điệp; Ngài cũng đã tha thứ tội lỗi.
Giacôbê 5, 14-17:
 
Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. Êlia xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa…và…không có mưa…
 
Khi nhắc tới một người "đau yếu", Thánh Giacôbê nói, "Người ấy hãy cầu nguyện." “Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca.” Nhưng khi nói đến bệnh tật và tội lỗi cá nhân, ông nói với độc giả rằng họ phải đến gặp “các kỳ mục” — chứ không phải bất kỳ ai — để nhận được sự “xức dầu” này và sự tha thứ.
 
Một số người sẽ phản đối và chỉ ra rằng câu 16 nói rằng hãy thú nhận tội lỗi của chúng ta “với nhau” và cầu nguyện “cho nhau”. Không phải Thánh Giacôbê chỉ khuyến khích chúng ta thú nhận tội lỗi của mình với một người bạn thân để chúng ta có thể giúp nhau vượt qua lỗi lầm của mình sao?
 
Ngữ cảnh dường như không đồng ý với cách giải thích này vì hai lý do chính:
 
  • Thánh Giacôbê vừa bảo chúng ta đến với kỳ mục trong câu 14 để được chữa lành và tha tội. Sau đó, câu 16 bắt đầu bằng từ do đó - một liên từ dường như sẽ nối câu 16 trở lại câu 14 và 15. Ngữ cảnh chỉ ra các bậc “trưởng lão” là người mà chúng ta đến để thú nhận tội lỗi của mình.
  • Êphêsô 5, 21 sử dụng cùng một cụm từ này. “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy phục tùng lẫn nhau.” Nhưng ngữ cảnh giới hạn ý nghĩa của từ “lẫn nhau” cụ thể đối với một người đàn ông và vợ mình — không phải cho bất kỳ ai. Tương tự, ngữ cảnh của thư Giacôbê chương 5 dường như sẽ giới hạn việc thú nhận lỗi lầm “lẫn nhau” trong mối quan hệ cụ thể giữa “bất cứ ai” và “kỳ mục” hoặc “tư tế” (tiếng Hy lạp — presbuteros).
 
MỘT TƯ TẾ HAY NHIỀU?

Một trở ngại lớn của việc Xưng tội đối với nhiều người Tin lành (kể cả tôi khi còn là một tín hữu Tin lành) là điều đó tiền giả định một chức tư tế. Như tôi đã nói ở trên, trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu được gọi là “Sứ Giả và là Thượng Tế cho chúng ta tuyên xưng đức tin”. Có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, như Do thái 7, 23 nói, bây giờ chúng ta có một tư tế — Chúa Giêsu Kitô. Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào ý tưởng về các linh mục và việc giải tội phù hợp ở đây? Có một linh mục hay có nhiều linh mục?
 
1 Phêrô 2, 5-9 cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc:
 
…như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa…
 
Nếu Chúa Giêsu là tư tế duy nhất trong Tân Ước theo nghĩa chặt chẽ, thì chúng ta có một sự mâu thuẫn trong Sách Thánh. Điều này, tất nhiên, là vô lý. Thư thứ nhất của Thánh Phêrô dạy rõ ràng rằng tất cả các tín hữu phải là thành viên của chức tư tế thánh. Linh mục/tín hữu không tước bỏ chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, đúng hơn, với tư cách là các chi thể của Thân thể Ngài mà họ thiết lập tác vụ này trên thế gian.
 
SỰ DỰ PHẦN ĐẦY ĐỦ VÀ CHỦ ĐỘNG

Nếu một người hiểu khái niệm Công giáo và rất Kinh Thánh về sự dự phần, thì những bản văn mơ hồ này và những bản văn khác trở nên tương đối dễ hiểu. Đúng vậy, Đức Giêsu Kitô là “Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” giống như đoạn 1 Tm 2, 5 nói. Kinh Thánh là hiển nhiên. Tuy nhiên, tín hữu Kitô giáo cũng được kêu gọi trở thành những người trung gian trong Đức Kitô. Khi chúng ta cầu bầu cho nhau hoặc chia sẻ Tin Mừng với ai đó, chúng ta đóng vai trò trung gian của tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa trong một Đấng trung gian đích thực, là Chúa Giêsu Kitô, qua ơn huệ được dự phần trong Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x. 1 Tm 2, 1-7; 1 Tm 4, 16; Rm 10, 9-14). Tất cả các Kitô hữu, theo một nghĩa nào đó, có thể nói như Thánh Phaolô, “… không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi…” (Gl 2, 20)
 
TƯ TẾ GIỮA CÁC TƯ TẾ

Nếu tất cả các tín hữu Kitô giáo đều là tư tế, thì tại sao người Công giáo tuyên bố chức tư tế thừa tác về cơ bản khác với chức tư tế phổ quát? Câu trả lời là: Thiên Chúa muốn kêu gọi một chức tư tế đặc biệt trong số các tư tế phổ quát để phục vụ cho dân Ngài. Khái niệm này theo nghĩa đen cũng đã cũ như Môsê vậy.
 
Khi Thánh Phêrô dạy chúng ta về chức tư tế phổ quát của tất cả các tín hữu, ông đặc biệt đề cập đến Xuất hành 19, 6, nơi Thiên Chúa ám chỉ Ítraen cổ đại là “một vương quốc tư tế, một dân thánh”. Thánh Phêrô nhắc chúng ta rằng có một chức tư tế phổ quát trong Dân Chúa thời Cựu Ước cũng giống như trong Tân Ước. Nhưng điều này không loại trừ sự tồn tại của chức tư tế thừa tác trong chức tư tế phổ quát đó (x. Xh 19, 22; Xh 28Ds 3, 1-12).
 
Nói một cách tương tự, chúng ta có “chức Tư tế Vương giả” phổ quát trong Tân Ước, nhưng chúng ta cũng có một hàng giáo sĩ được phong chức, những người có thẩm quyền tư tế được Chúa Kitô trao cho họ để thực hiện chức vụ hòa giải của Ngài như chúng ta đã thấy.
 
NĂNG QUYỀN THỰC SỰ TRỌN HẢO

Một vài đoạn văn cuối cùng mà chúng ta sẽ xem xét là Mátthêu 16, 1918, 18. Cụ thể, chúng ta sẽ khảo sát những lời của Đức Kitô nói với Phêrô và các tông đồ: “dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Như Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo số 553 đã nói, ở đây Đức Kitô không chỉ ban cho các tông đồ quyền “công bố các phán xét giáo lý, và đưa ra các quyết định kỷ luật trong Hội Thánh”, mà còn là “năng quyền tha tội” cho các tông đồ.
 
Những từ này gây lo lắng, thậm chí là đáng quan ngại đối với nhiều người. Và dễ hiểu là như vậy. Làm sao Thiên Chúa có thể ban cho loài người thẩm quyền như vậy? Và Ngài vẫn làm điều đó. Đức Giêsu Kitô, Đấng duy nhất có quyền mở và đóng cửa thiên đàng cho loài người, đã ủy thác năng quyền này cho các tông đồ và những người kế vị họ. Đây là mục đích của sự tha thứ: để hòa giải những người nam và người nữ với Cha trên trời của họ. Sách Giáo lý số 1445 diễn đạt ngắn gọn:
 
Cầm buộctháo cởi nghĩa là ai bị các tông đồ loại trừ khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh, cũng không được hiệp thông với Thiên Chúa; ai được hiệp thông trở lại, cũng được thông hiệp lại với Thiên Chúa. Giao hòa với Hội Thánh không thể tách biệt khỏi giao hòa với Thiên Chúa.
 
 
*Các chú thích Kinh Thánh được lấy từ bản dịch của Nhóm Phiên dịch các giờ kinh phụng vụ